Chia sẻ

Tre Làng

THỬ VÉN MÀN HUYỀN THOẠI AN DƯƠNG VƯƠNG



Thành Cổ Loa
1. Đền An Dương Vương ; 2. Am Mị Cháu ; 3. Ngự triều di quy ; 4. Gò Ngự xạ đài; 5. cầu vực, nơi đào được Kho mũ tên đồng ; 6. Giếng Ngọc.
Cổ Loa thành ốc khác thường
Ngàn năm dấu tích chiến trường còn đây.
KS. PHAN DUY KHA
Cổ Loa thành ốc khác thường
Ngàn năm dấu tích chiến trường còn đây.
(Ca dao cổ)
Cũng như thời đại các vua Hùng, triều đại An Dương Vương được lịch sử ghi lại chủ yếu dựa vào truyền thuyết. Khác với thời các vua Hùng, các truyền thuyết về An Dương Vương xoay quanh một “thực thể” có thật – thành Cổ Loa. Người ta có thể thêu dệt nên huyền thoại nhưng không thể “bịa” ra cả một tòa thành. Thành Cổ Loa (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội) là chứng tích vật chất hùng hồn của triều đại An Dương Vương. Tương truyền Cổ Loa có chín vòng thành, nay còn lại dấu tích ba vòng. Thành nội hình chữ nhật, có chu vi l,6Km, cao 5m, mặt thành rộng l0m, chân thành từ 20 – 30m. Thành giữa hình đa giác, có chu vi 6,5km, cao 6 – 12m. Thành ngoại có chu vi 8km, cao trung bình 4 -5m (trải hơn 2.200 năm bị nắng mưa bào mòn và con người tàn phá mà thành còn như thế, chắc rằng khi mới xây dựng, thành rất hùng vĩ!). Nơi đây, Thục An Dương Vương và triều đình của ông trị vì quốc gia được 50 năm (257 – 208 trước Công nguyên)(1).
An Dương vương đoạt ngôi của vua Hùng?
An Dương Vương Thục Phán là thủ lĩnh một liên minh bộ lạc hùng mạnh ở phía Tây Bắc nước Văn Lang của Hùng Vương. Về đời Hùng Duệ Vương (Hùng Vương 18), triều đình suy yếu, Hùng Duệ Vương lại không có con trai nối ngôi. Chính điều đó đã kích thích Thục Phán “nhòm ngó”  ngôi báu của vua Hùng. Theo Ngọc phả Hùng Vương thì chính Hùng Duệ Vương đã nhường ngôi cho Thục Phán. Sau khi được nhường ngôi, An Dương Vương đã lập cột đá thề trên núi Nghĩa Lĩnh mà thề rằng: “Nguyện có trời cao lồng lộng chứng giám xét soi, xin đời đời giữ gìn non sông bền vững và miếu vũ họ Hùng. Nếu sai lời thề sẽ bị trăng vùi gió dập” Ngày nay, còn di tích cột đá thề ở đền Thượng trong cụm di tích đền Hùng (Vĩnh Phú).
Lần tìm trong truyền thuyết, chúng tôi cho rằng: không phải Hùng Vương nhường ngôi cho An Dương Vương, mà chính An Dương Vương đã dùng vũ lực đoạt ngôi của vua Hùng. Không phải ngẫu nhiên mà có rất nhiều truyền thuyết xoay quanh cuộc chiến tranh Hùng -Thục Các truyền thuyết đó xuất hiện và được lưu truyền trên một diện tích rất rộng. Sự tích Bảo Công ở núi Sài (Sài Sơn, Bà Vì) kể: khi Thục Phán đem quân đánh vua Hùng, Bảo Công đã đem quân theo Tản Viên Sơn Thánh (Sơn Tinh) đánh quân Thục. Quân Thục thua to phải chạy lên tận Lạng Châu. Hai tướng Trần Giới, Trần Hà theo Tản Viên lên tận Châu Mộc, đánh quân Thục dọc sông Mã, quân Thục thua to đành phải rút về. Đại Hải tướng của vua Hùng, vào chỗ quân Thục ở núi Quỳnh Nhai, đánh trống hò reo, nhử cho quân Thục đuổi theo vào chỗ phục binh của Tản Viên. Quân Tản Viên bắn tên nỏ ra như mưa, quân Thục chết nhiều, đành phải lui binh. Phan Tây Nhạc, quê ở Nghệ An, được Hùng Duệ Vương phong làm tướng. Khi Thục Phán nổi lên cướp ngôi vua Hùng, ông đã theo Tản Viên mang quân chống lại, lập được công to Tại Từ Liêm (Hà Nội) con đền thờ ông. Còn đền Bảo An (Vĩnh Bảo, Hải Phòng) thờ hai anh em Cương Nghị, Bảo An làm tướng dưới thời Hùng Duệ Vương. Hai ông đã cầm quân đánh Thục An Dương Vương và thắng nhiều trận lớn, được vua Hùng phong tước. ở Bông Điền (Vũ Thư, Thái Bình) cũng có hai anh em được Hùng Duệ Vương phong là Tinh bộ tướng quân vàTạp bộ tướng quân, đã mang quân đánh Thục An Dương Vương và thắng nhiều trận lớn… Những sự tích xung quanh cuộc chiến tranh Hùng – Thục rất nhiều, trên một diện rất rộng, phản ánh một sự thực lịch sử là An Dương Vương đã đoạt ngôi của vua Hùng bằng vũ lực. Còn chuyện ông lập cột đá để ghi trong Ngọc phả Hùng Vương theo chúng tôi chỉ là hình thức, nhằm trấn an dư luận, vỗ yên dân chúng mà thôi. Đây là biện pháp tâm lý cần thiết của một triều đại mới.
Cũng ở Vĩnh Phú, còn lưu truyền một số sự tích như An Dương Vương đánh thắng vua Hùng, giết chết con gái vua Hùng ở Bồ Sao (Vĩnh Phú). Truyền thuyết còn kể rằng An Dương Vương đã đem họ hàng tông tộc vua Hùng về giết hết ở một địa điểm gần Cổ Loa. Theo Ngọc phả An Dương Vương và Sự tích thành Cổ Loa thì khi An Dương Vương xây thành, cứ xây được bao nhiêu, hôm sau lại bị phá sạch. Thần Kim Quy hiện lên cho biết: “Các vua đời trước (tức vua Hùng) cùng bọn nhạc công bị chết đều chôn ở núi Thất Diệu, những hồn ấy từ lâu không tan, lần khuất trong khe đá, trong hang sâu. Những linh hồn ấy có thù với nhà vua, đêm thanh vắng thường họp thành từng đàn, từng lũ, phá thành của nhà vua”. Núi Thất Diệu gồm 7 ngọn nùi nhỏ, ở gần Cổ Loa. Phải chăng đây chính là nơi vua Thục đã đem giết họ hàng tông tộc của vua Hùng như truyền thuyết ở Vĩnh Phú kể lại (có bị giết thì những linh hồn ấy mới thù vua Thục như thế)? Xét từ những truyền thuyết trên, chúng tôi cho rằng An Dương Vương đã dùng vũ lực đoạt ngôi của vua Hùng. Đại Việt sử lược, cuốn sử xưa nhất của ta cũng chép: “Cuối đời nhà Chu, Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi rồi lên thay”. Tất  nhiên, lúc này triều đình vua Hùng đã suy thoái và sự thay thế của An Dương Vương là một tất yếu lịch sử. Sau khi lên làm vua, An Dương Vương đã có công lớn tập hợp lực lượng, kháng chiến chống Tần thắng lợi. Sử sách đã ghi: “Tần Thủy Hoàng sai tướng là Đồ Thư đem quân sang đánh Bách Việt và Âu Lạc… Vào Việt, Tần đóng quân ở đất vô dụng, tiến không được, thoái không xong. Trải hơn 10 năm, đàn ông phải mặc giáp, đàn bà phải chuyên chở, (quân Tần) khổ không sống nổi. Người tự tử thắt cổ trên cây dọc đường, người chết trông nhau…” (Sử ký – Tư Mã Thiên); và: “Người Việt vào rừng ở, không chịu để cho quân Tần bắt. Họ cùng nhau đặt người tuấn kiệt lên làm tướng để ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá quân Tần và giết được Đồ Thư. Quân Tần thây phơi máu chảy hàng mấy vạn người” (Hoài Nam Tử).
An DươngVương và bi kịch mất nước.
Truyền thuyết kể rằng An Dương Vương nhờ có nỏ thần mà Triệu Đà mấy lần phát binh sang đánh Âu Lạc đều bị thất bại. Đà bèn giảng hòa với An Dương Vương đồng thời cho Trọng Thủy là con trai mình lấy Mỵ Châu là con gái An Dương Vương và xin được ở rể. Trọng Thủy nhờ đó mà đánh tráo được lẫy nỏ thần mang về cho cha. Khi viết về sự kiện này, các nhà nghiên cứu đều cho rằng Trọng Thủy đã ăn cắp bí mật sản xuất vũ khí, hoặc là ăn cắp kỹ thuật quân sự của Âu Lạc (được thần thoại hóa bằng chiếc lẫy nỏ). Chúng tôi cho rằng không hẳn như thế. Truyền thuyết Cổ Loa và Ngọc phả An Dương Vương đều kể rằng trong thời gian ở Loa Thành, Trọng Thủy đã lợi dụng để đi xem xét mọi bí mật ngõ ngách tòa thành. Chính y đã làm một công việc đơn giản hơn nhiều mà lại rất hợp với vai trò của một tên gián điệp: tìm hiểu sơ đồ bố phòng của ta và vị trí kho mũi tên đồng để đánh chiếm đầu tiên, vì đây là vũ khí lợi hại nhất của An Dương Vương (Gần cửa Nam thành, tại khu Cầu Vực, vào năm 1959, chúng ta đã đào được một kho vũ khí có hàng vạn mũi tên đồng hai, ba ngạnh. Phải chăng đây chính là kho mũi tên đồng của An Dương Vương xưa bị lấp vùi?). Trọng Thủy là một tên gián điệp lợi hại được cài vào triều đình vua Thục. Y còn dùng của đút lót cho các quan để chia rẽ nội bộ triều đình Âu Lạc. Chính An Dương Vương đã nuôi ong tay áo và bi kịch mất nước không nên đổ hết cho Mỵ Châu” Ngày nay, một số nhà nghiên cứu, nhà văn, nhà thơ của ta đã lên án Mỵ Châu: “Trái tim lầm chỗ để trên đầu. Nỏ thần vô ý trao tay giặc”. Chúng tôi cho rằng Mỵ Châu đáng thương nhiều hơn đáng trách. Người chịu trách nhiệm chính trong bi kịch mất nước phải là Thục An Dương Vương bởi sự sơ xuất và chủ quan của ông: để con trai kẻ thù vào ở ngay cạnh mình, mặc dù triều đình rất nhiều người can ngăn. Thậm chí một số đại thần vì chuyện này mà đã mâu thuẫn với vua Thục, phải từ quan về quê, như trường hợp tướng quân Cao Lỗ – cánh tay phải của vua Thục.
Còn về chuyện Mỵ Châu rắc lông ngỗng dọc đường thì chỉ là chuyện huyền thoại mà thôi. Sự thật lịch sử là: sau khi mất Loa Thành, An Dương Vương cùng triều đình đã tháo chạy vào Nghệ An để lập căn cứ kháng chiến. Chúng ta biết, núi Mộ Dạ – nơi có đền thờ An Dương Vương (nay thuộc Diễn Châu – Nghệ An) hồi ấy rất rậm rạp, là chỗ có nhiều chim công (chim công chỉ sống trong rừng đại ngàn) vì vậy mới có tên đền Công. Ngày nay, nơi đây là đồi trọc, người ta mới trồng thông nhưng vào giữa thế kỷ XIX, vùng này rừng vẫn còn rậm rạp. Nhà thơ Cao Bá Quát (1808 -1855) khi qua đây còn thấy:
Loa cáp thê lương hà xứ mịch
Tà dương tước vũ Mộ Sơn tê
(Đến nay sò ốc thê lương biết tìm nơi nào
Chiều tà chỉ thấy chim công múa ở phía Tây núi Mộ Dạ).
(Cao Bá Quát – Qua miếu Mỵ Châu)
Chính vì vị trí lợi hại của nó mà vua Thục đã chọn nơi đây làm căn cứ kháng chiến chống Triệu Đà. Và khi quân Đà tấn công vào đây, thế cùng, An Dương Vương đành nhảy xuống biển tự vẫn (truyền thuyết đã thần thoại hóa bằng cách cho ông cầm sừng tê, rẽ nước đi xuống biển). Trước khi chết, không để con gái rơi vào tay giặc, ông đã giết Mỵ Châu. Còn Trọng Thủy sau này do ân hận mà chết. Về sự kiện Triệu Đà đánh chiếm Âu Lạc, Sử ký Tư Mã Thiên ghi rất sơ sài: “Đà nhân đó dùng vũ lực uy hiếp nơi biên giới, đem đồ đạc của cải đút lót Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc theo mình”. Phải chăng chi tiết “đem đồ đạc của cải đút lót” trong Sử ký nhằm chỉ sự việc Trọng Thủy đã mua chuộc và chia rẽ nội bộ triều đình vua Thục?
Triệu Đà, sau khi thu phục được Âu Lạc, lên làm vua đóng đô ở Phiên Ngưng (Quảng Châu, Trung Quốc), đặt tên nước là Nam Việt. Lịch sử không ghi Đà có mấy con trai, nhưng khi Đà chết (137 T.C.N) thì truyền ngôi cho Triệu Hồ (tức Triệu Văn Vương) là cháu nội của mình. Có tài liệu chép Hồ chính là con Trọng Thủy (Tất nhiên không phải với Mỵ Châu!). Phải chăng Triệu Đà cũng chỉ có một con trai và Trọng Thủy đã có vợ con? Y lấy Mỵ Châu đơn thuần chỉ vì nhiệm vụ gián điệp mà cha mình giao cho? Và y đã đóng kịch rất giỏi, còn Mỵ Châu thì quá ngây thơ, cả tin nên đã yêu y hết lòng! Dù sao đây cũng là bi kịch lịch sử đầu tiên và lớn nhất của dân tộc ta. Chính nó đã dìm nước ta vào suốt hơn một ngàn năm Bắc thuộc.
Một người đã lãnh đạo kháng chiến chống Tần hiển hách như thế, cuối cùng chỉ vì chủ quan và sơ xuất để đến nỗi “cơ đồ đắm biển sâu”. Cái giá của bài học lịch sử quả là quá đắt!
(1) Có t ài liệu ghi 30 năm (208 – 179 TCN), ở đây theo Đại Việt sử ký toàn thư.
* Nguồn: NHÌN LẠI LỊCH SỬ, nhà xuất bản Văn hóa-Thông tin, Hà Nội 2003, Tác giả: KS. PHAN DUY KHA – TS. LÃ DUY LAN – TS. ĐINH CÔNG VĨ.

3 nhận xét:

  1. "Nỏ thần vô ý trao tay giặc ..." Bài học muôn đời...!

    Trả lờiXóa
  2. Vẫn là cái chết đến từ phía đàn bà

    Trả lờiXóa
  3. đa số các đời vua bị mất nước là do đàn bàn mà!mĩ nhân kế.keke

    Trả lờiXóa

Tìm kiếm mở rộng

Google TreLang

Tre Làng

Thông kê truy cập

Lưu trữ Blog